Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Tư vấn luật thủ tục thành lập công ty chuyên bán hàng đa cấp

Thủ tục thành lập công ty - Ngày nay bán hàng đa cấp đang là một lĩnh vực kinh doanh "nhạy cảm", trong những năm qua phương thức bán hàng này đang tồn tại đa dạng tại Việt nam. Các thuật ngữ "bán hàng đa cấp biến tướng lừa đảo thông qua hình thức bán hàng đa cấp" luôn xuất hiện với dày đặc trên các trang báo, vậy làm thế nào để kinh doanh bán hàng đa cấp đúng nghĩa và pháp luật Việt Nam quy định về hình thức kinh doanh này như thế nào?
Bài viết dưới đây sẽ giải đáp những quy định cơ bản về việc thực hiện hoạt động bán hàng đa cấp, thủ tục thành lập công ty đa cấp theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam:
Bán hàng đa cấp
1. Căn cứ pháp lý
- Căn cứ nghị định số 110/2005/NĐ-CP của chính phủ ngày 24 tháng 8 năm 2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
- Căn cứ thông tư của Bộ Thương mại Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08 tháng 11 năm 2005 Hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 08 năm 2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
2. Điều kiện thành lập doanh nghiệp bán hàng đa cấp:
+ Doanh nghiệp đã thực hiện ký quỹ;
+ Doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa phù hợp với ngành nghề ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Có đủ điều kiện kinh doanh hoặc được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật trong trường hợp kinh doanh hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa kinh doanh có điều kiện.      
+ Có Chương trình bán hàng minh bạch và không trái pháp luật.
+ Có Chương trình đào tạo người tham gia rõ ràng.
3. Cách thức thực hiện:
Bước 1: Làm Thủ tục đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp.
Bước 2: Đến bộ phận Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của Sở Công Thương để lấy mẫu đơn .
Bước 3: Nộp đầy đủ hồ sơ tại bộ phận Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả tại Sở Công Thương .
- Hồ sơ đầy đủ cán bộ tiếp nhận sẽ viết phiếu hẹn nhận kết quả cho người nộp hồ sơ.
- Hồ sơ thiếu hoặc không hợp lệ: được cán bộ hướng dẫn để bổ sung hồ sơ kịp thời
Bước 4: Đến ngày hẹn trong phiếu, đến nơi nộp hồ sơ đóng lệ phí , nhận giấy đăng ký với trường hợp được cấp. Trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy đăng ký sẽ nhận văn bản trả lời của Sở Công Thương.
4. Thành phần hồ sơ:
1. Đơn đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp theo mẫu của Bộ Thương mại.
2. Bản sao có công chứng Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Văn bản xác nhận của ngân hàng về số tiền ký quỹ theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định này.
4. Bản sao có công chứng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trong trường hợp kinh doanh hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa kinh doanh có điều kiện.
5. Danh sách và lý lịch của những người đứng đầu doanh nghiệp có ảnh và xác nhận của công an xã, phường nơi cư trú. Đối với người nước ngoài, phải có xác nhận của Đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự tại Việt Nam của nước người đó mang quốc tịch.
6. Chương trình bán hàng có các nội dung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị định này.
7. Chương trình đào tạo người tham gia có các nội dung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 6 Nghị định nà
Để chúng tôi có thể hoàn thiện hồ sơ thành lập doanh nghiệp bán hàng đa cấp mà quý khách hàng yêu cầu thì quý khách hàng cần phải cung cấp cho chúng tôi một số tài liệu, thông tin cụ thể sau:
- Bản sao có công chứng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Văn bản xác nhận của ngân hàng về số tiền ký quỹ theo quy định;
- Bản sao có công chứng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trong trường hợp kinh doanh hàng hóa kinh doanh có điều kiện;
- Danh sách và lý lịch của những người đứng đầu doanh nghiệp có ảnh và xác nhận của công an xã, phường nơi cư trú; bao gồm: chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc), các chức danh quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
- Chương trình bán hàng; chương trình đạo tạo người tham gia theo quy định pháp luật.
5. Quy trình xem xét đơn
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp
- Cơ quan cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp.
- Cơ quan tiếp nhận hồ sơ phải ghi giấy biên nhận. Giấy biên nhận hồ sơ làm thành 02 bản theo mẫu, 01 bản giao cho doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp và 01 bản lưu tại cơ quan cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp.
- Đối với hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ, trong thời gian tối đa 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ về yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh hồ sơ.
- Doanh nghiệp có quyền đề nghị cơ quan tiếp nhận hồ sơ giải thích rõ những yêu cầu cần bổ sung và hoàn chỉnh hồ sơ và cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lời đề nghị đó của doanh nghiệp.
- Trong trường hợp không phải bổ sung hồ sơ, thời hạn thẩm định hồ sơ được tính kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ.
Bước 2: Thẩm định hồ sơ để quyết định việc cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp
- Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, trên cơ sở hồ sơ đã nhận được và các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp thẩm định hồ sơ để quyết định cấp hoặc từ chối cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp.
- Trường hợp từ chối cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp phải trả lời bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
Bước 3:  Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp
- Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp được ghi theo mẫu, được lập thành 02 bản chính, 01 bản cấp cho doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp và 01 bản lưu ở cơ quan cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp.
- Cơ quan cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp ghi số Giấy đăng ký theo: mã số tỉnh, mã loại hình doanh nghiệp, mã số thứ tự của doanh nghiệp, các mã số được viết cách nhau bằng dấu gạch ngang.
Bước 4: Thu lệ phí cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp
Trước khi giao Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp, cơ quan cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp thu lệ phí cấp Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
6. Mức phí
Phí dịch vụ trọn gói thành lập công ty doanh nghiệp là: 15.000.000 VNĐ (Bằng chữ: Mười lăm triệu đồng)
Trên đây là thư tư vấn luật của chúng tôi về vấn đề thành lập công ty bán hàng đa cấp. hay thành lập công ty cổ phần, TNHH, ... Còn bất cứ vấn đề gì thắc mắc, quý khách hàng có thể liên lạc trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn và giải đáp

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

Tư vấn đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu có chứng nhận

Công ty luật intracolaw tư vấn đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu chứng nhận tại thị trường Việt Nam. Quý khách hàng có nhu cầu tư vấn, đăng ký bảo hộ vui lòng liên hệ trực tiếp để được tư vấn, hỗ trợ
1. Nhãn hiệu chứng nhận là gì:
Theo quy định của Luật Sở Hữu Trí Tuệ, nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.
 
2. Quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận:
Quyền đăng ký nhãn hiệu thuộc về tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó.
 
3. Yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu chứng nhận
Tài liệu, mẫu vật, thông tin xác định nhãn hiệu cần bảo hộ trong đơn đăng ký nhãn hiệu bao gồm:
+ Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
+ Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
Mẫu nhãn hiệu phải được mô tả để làm rõ các yếu tố cấu thành của nhãn hiệu và ý nghĩa tổng thể của nhãn hiệu nếu có; nếu nhãn hiệu có từ, ngữ thuộc ngôn ngữ tượng hình thì từ, ngữ đó phải được phiên âm; nhãn hiệu có từ, ngữ bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng Việt. Hàng hoá, dịch vụ nêu trong đơn đăng ký nhãn hiệu phải được xếp vào các nhóm phù hợp với bảng phân loại theo Thoả ước Ni-xơ về phân loại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, do cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp công bố.
 
Sau hơn một năm đăng ký thành công nhãn hiệu “Rau Đà Lạt”, lần đầu tiên, 10 đơn vị trồng, chế biến rau ở Đà Lạt và các vùng phụ cận được UBND thành phố Đà Lạt cấp nhãn hiệu chứng nhận nhãn hiệu Rau Đà Lạt.
 
4. Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận phải có những nội dung chủ yếu sau đây
+ Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu.
+ Điều kiện để được sử dụng nhãn hiệu.
+ Các đặc tính của hàng hoá, dịch vụ được chứng nhận bởi nãn hiệu.
+ Phương pháp đánh giá các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ và phương pháp kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu.
+ Chi phí mà người sử dụng nhãn hiệu phải trả cho việc chứng nhận, bảo vệ nhãn hiệu, nếu có.
Ở nhiều nước, khác biệt chính giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu tập thể chỉ được sử dụng cho một nhóm doanh nghiệp cụ thể, ví dụ các thành viên của hiệp hội, trong khi đăng ký nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng cho bất kỳ chủ thể nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định của chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận. Một yêu cầu quan trọng đối với nhãn hiệu chứng nhận là chủ thể nộp đơn đăng ký phải được xem là “có thẩm quyền chứng nhận” hàng hóa có liên quan. Nhãn hiệu chứng nhận cũng có thể được sử dụng cùng với các nhãn hiệu riêng của nhà sản xuất hàng hóa nhất định. Nhãn hàng hóa sử dụng như nhãn hiệu chứng nhận là bằng chứng chứng tỏ rằng sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể được đặt ra khi sử dụng nhãn hiệu chứng nhận


xem thêm:

đăng ký thương hiệu
đăng ký bảo hộ thương hiệu

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

Chào mừng ngày 10/10 truyền thống Luật sư Việt Nam

Chào ngày 10/10, tại Cung Trí thức thành phố Hà Nội, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã tổ chức kỷ niệm “Ngày truyền thống luật sư Việt Nam” (10/10/1945 – 10/10/2013). Nhân dịp này Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực chào mừng như tổ chức tư vấn phấp luật miễn phí cho cộng đồng, tổ chức Hội thảo “Luật sư (LS) thời hội nhập và các vấn đề pháp lý doanh nghiệp
Tới dự có ông Đỗ Ngọc Thịnh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên đoàn luật sư Việt Nam cùng đông đảo luật sư, đại diện các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. 

 
LS Nguyễn Văn Chiến, Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội; LS Lê Phan Thùy Anh- Công ty luật TNHH Quốc tế Châu Á Thái Bình Dương- thành viên Đoàn luật sư Hà Nội chủ trì Hội thảo. 
Đã có 8 tham luận trình bày tại Hội thảo là các thành viên của Đoàn LS Hà Nội. Đó là tham luận “ Thực tiễn sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của doanh nghiệp Việt Nam” của TS, LS Bùi Ngọc Anh – Công ty Luật TNHH Quốc tế Việt Nam –VILAF Hồng Đức. “Xây dựng và bảo hộ thương hiệu là công cụ quan trọng để phát triển kinh tế và Hội nhập quốc tế” của ông Trần Tiến Dũng – VPLS Phạm và Liên danh. “Một số vấn đề pháp lý doanh nghiệp cần lưu ý khi thực hiện giao dịch vay vốn ngân hàng” của LS Vũ Diệu Huyền – Công ty luật Hợp danh YKVN. “Doang nghiệp nhỏ và vừa với nhu cầu hỗ trợ pháp lý của Luật sư” của ông Lê Anh Văn – Phó giám đốc Trung tâm hỗ trợ pháp luật và phát triển nguồn nhân ực - Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. “Phạt vi phạm và Bồi thường thiệt hại” của TS, LS Đào Ngọc Chuyền – Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào và đồng nghiệp”. “Hình thức ủy quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam” cuả LS Nguyễn Thế Truyền – Công ty luật Hợp danh Thiên Thanh. “Rủi ro trong hợp đồng thương mại” của LS Lê Phan Thùy Anh - Công ty luật TNHH Quốc tế Châu Á Thái Bình Dương. “Hoạt động pháp chế doanh nghiệp và vấn đề hợp đồng” của LS Đỗ Minh Phương. Các tham luận nêu trên là những vấn đề “nóng” đang đặt ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh thời hội nhập, được giới LS và đại diện các doanh nghiệp rất quan tâm. 
Ngoài ra, một số luật sư cũng đã gửi tham luận đến Hội thảo như "Một số vấn đề cần lưu ý khi soạn thảo Hợp đồng" của Ths, LS Trần Văn Sơn - VPLS Trần Sơn và cộng sự; "Luật sư và doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập" của PGS,TS, LS Phạm Hồng Hải, Phó Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam; "Quan hệ Luật sư với các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay" của LS Hoàng Văn Hướng, Trưởng VPLS Hoàng Hưng; "Luật sư Tập đoàn - Một vài chia sẻ" của LS Nguyễn Thị Lan Hương; "Gian truân con đường đòi nợ và việc gặp gỡ, chung đường với Luật sư" của Chủ tịch HĐQT Công ty đầu tư TM- TH Nguyễn Văn Quang... 
Hội thảo đã sôi nổi thảo luận, chia sẻ thực tế những chồng chéo, vướng mắc trong quá trình thực hiện “Hình thức ủy quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam” do LS Nguyễn Thế Truyền – Công ty luật Hợp danh Thiên Thanh trình bày. Các đại biểu đều bày tỏ hy vọng đến một thời điểm nào đó sẽ có những hội thảo chuyên sâu về chủ đề này để kiến nghị Nhà nước sớm có Nghị định riêng về “Hình thức ủy quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam” khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo, vướng mắc trong những quy định hiện hành khó thực thi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như để LS làm việc chính danh hơn về lĩnh vực này. 
Câu lạc bộ văn phòng luật sư tham gia tư vấn miễn phí nhân "Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam"
Luật sư ngày nay tư vấn luật miễn phí  nhân "Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam"
LS Nguyễn Văn Chiến, Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội kết luận cho rằng Hội thảo là cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm bổ ích không chỉ cho giới LS mà cho cả các doanh nghiệp về những vấn đề pháp lý đặt ra trong thời hội nhập, nhất là việc “sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của doanh nghiệp Việt Nam”, “Xây dựng và bảo hộ thương hiệu là công cụ quan trọng để phát triển kinh tế và Hội nhập quốc tế”... Các cơ quan truyền thông đại chúng đang rất quan tâm thông tin tuyên truyền về lĩnh vực này. Giới LS công tác trên địa bàn Hà Nội sẵn sàng tham gia hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, xây dựng và bảo hộ thương hiệu... Các doanh nghiệp hãy quan tâm sử dụng các gói dịch vụ pháp lý. Trên cơ sở đó, các LS sẵn sàng đồng hành tư vấn, góp phần giải quyết những vướng mắc liên quan đến sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trên thương trường trong nước và quốc tế. Các dịch vụ pháp lý ban đầu có thể là miễn phí, dịch vụ giảm phí và tiến tới những gói dịch vụ phù hợp. Đoàn LS Hà Nội sẽ động viên các LS phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hỗ trợ pháp lý các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong sản xuất kinh doanh, góp phần hòa chung với phát triển của doanh nghiệp Việt Nam

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

Công ty luật IntracoLaw tư vấn đăng ký nhãn hiệu


Kính gửi: Văn phòng luật sư / Công ty luật IntracoLaw

Chúng tôi là đơn vị chuyên xuất khẩu hoa quả sang Châu Âu, chúng tôi muốn đăng ký nhãn hiệu trên toàn Châu Âu thì có thể nộp đơn trực tiếp tại Văn phòng OHIM được không. Kiên Nafood
 
Công ty luật IntracoLaw xin trả lời Quý khách như sau:
 
Theo quy định của cơ quan nhãn hiệu châu Âu, người nộp đơn không phải là quốc tịch của các nước Châu Âu và cũng không có hiện diện thương mại tại các quốc gia này muốn nộp đơn trực tiếp bạn bắt buộc phải thông qua một đại diện sở hữu công nghiệp tại Châu Âu.
 
Các đại diện sở hữu công nghiệp là các công ty đã được cơ quan đăng ký nhãn hiệu Châu Âu thừa nhận và công bố danh sách.
 
Bạn có thể liên hệ trực tiếp với các đơn vị này.
 
Ngoài ra bạn cũng có thể nộp đơn tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam để nộp đơn đăng ký tại Châu Âu thông qua hệ thống dang ky nhan hieu của Thỏa ước / Nghị định thư Madrid.
Xin chân thành cảm ơn


Liên hệ văn phòng luật sư intracolaw

 Địa chỉ:
Phòng 413, Nhà B15, Khu đô thị Đại Kim - Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội
 Email:  main@intracolaw.com.vn

Luật sư Việt Nam tham gia tham gia phiên tòa quốc tế bảo vệ chủ quyền

Kỷ niệm Ngày truyền thống luật sư Việt Nam hôm nay (16/10), Chủ tịch Liên đoàn luật sư VN Lê Thúc Anh khẳng định: Luật sư VN sẵn sàng tham gia các phiên tòa quốc tế để bảo vệ chủ quyền biển đảo

Kỷ niệm ngày truyền thống luật sư VN, trong phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và trong chia sẻ của người trong ngành đều nhấn mạnh vai trò của luật sưtrong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo. Theo ông, các luật sư Việt Nam cần chủ động làm gì để tham gia tích cực hơn vào công việc này?
Đất liền cũng như biển đảo đất nước là chủ quyền thiêng liêng mà cha ông để lại, bảo vệ là trách nhiệm của mọi người dân, đặc biệt là giới luật sư.
Liên đoàn luật sư VN đã thành lập một ban biển đảo để nghiên cứu về mặt pháp lý, khi được Chính phủ yêu cầu, chúng tôi sẽ tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo, căn cứ pháp luật và thông lệ quốc tế. Nếu cần thiết phải tham gia những phiên tòa quốc tế thì các luật sư Việt Nam cũng sẵn sàng.
Vừa rồi chúng tôi đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, trang bị cho đội ngũ luật sư các kiến thức về biển. Trong hai năm gần đây, trước các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo, Liên đoàn luật sư VN cũng đã có hai bản tuyên bố được nhân dân ủng hộ, hoan nghênh.
- Ông nhận định thế nào về tình trạng hiện nay vẫn còn nhiều án oan sai và giới luật sư phải làm gì để cải thiện tình trạng này?
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã nói: Phán quyết của tòa phải dựa trên cơ sở kết qủa tranh tụng tại phiên toà. Muốn tranh tụng tốt thì phải có sự bình đẳng giữa luật sư và kiểm sát. Tòa phải chú ý, ghi nhận và xem xét, không chỉ ý kiến của Viện kiểm sát mà còn ý kiến của văn phòng luật sư bảo vệ thân chủ của mình, tránh oan sai.
Trong việc xây dựng pháp luật tố tụng, chúng tôi đã và đang vận động để có một chương riêng về luật sư. Có nghĩa là đã đụng chạm đến quyền tự do của người dân là phải có luật sư.
Ở Việt Nam, cũng như các nước, công dân khi bị bắt cần có quyền im lặng và yêu cầu luật sư, vì đó là những trường hợp người dân hoang mang, thiếu bình tĩnh, không đủ sáng suốt để tự bảo vệ mình, có thể nói những điều không chính xác, bất lợi.
- Thực trạng hiện nay là người dân chưa nghĩ ngay đến luật sư khi có những tranh chấp pháp lý, thay vào đó lại gia tăng việc "tự xử", tìm đến "cò" hay các mối quan hệ thân quen. Là một luật sư lâu năm, ông nghĩ thế nào về tình trạng này?
Ở Việt Nam, người dân chưa thấy hết vai trò quan trọng của luật sư thế nào. Cần tuyên truyền để nâng cao vị thế của luật sư, đồng thời chính bản thân các luật sư phải rèn luyện về năng lực trình độ và phẩm chất đạo đức để người dân, cũng như các tổ chức, doanh nghiệp tin tưởng, tự thấy cần luật sư như cần bác sĩ. Bác sĩ phòng, chữa bệnh, luật sư phòng, tránh những rủi ro về pháp luật.
Tôi đề nghị bà con, cô bác, khi có vấn đề liên quan đến pháp luật, cần tư vấn thì cứ mạnh dạn nhờ đến luật sư. Với những gia đình khó khăn, chính sách, người nghèo, chúng tôi công ty luật sẽ tư vấn và bảo vệ họ miễn phí. Luật sư là người hiểu pháp luật, sẽ giúp việc bảo vệ quyền lợi cho người dân thuận lợi hơn

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Nghành luật sư Việt Nam chính thức có ngày truyền thống hàng năm

Luật sư - là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia. Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là phục vụ cho khách hàng). Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý như: tư vấn luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật, và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ quyền lợi của thân chủ trước tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng
Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tổ chức họp báo công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và kỷ niệm Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam.
Hình ảnh tại buổi họp báo. (Ảnh HNM)
Liên đoàn luật sư Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo chính thức công bố Quyết định số 149/QĐ-TTg, ngày 14/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận ngày 10/10 là Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam và các hoạt động kỷ niệm Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam năm 2013.
Chủ trì cuộc họp báo có luật sư, tiến sĩ Đỗ Ngọc Thịnh, phó chủ tịch kiêm tổng thư ký LĐLSVN, luật sư Nguyễn Văn Thảo phó chủ tịch thường trực và luật sư Nguyễn Văn Chiến – phó tổng thư ký LĐLSVN. Thông tin tại cuộc họp báo, ông Đỗ Ngọc Thịnh cho biết, trong dịp này, lần đầu tiên giới luật sư sẽ đồng loạt "ra quân” thực hiện trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí cho nhân dân tại hơn 3.000 tổ chức hành nghề luật sư trên cả nước vào ngày 10/10.
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL về tổ chức đoàn thể luật sư, đến nay các thế hệ luật sư Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay, cả nước có hơn 8.000 luật sư, hơn 3.000 tổ chức hành nghề luật sư thuộc 63 Đoàn Luật sư. Liên đoàn văn phòng luật sư Việt Nam tuy mới thành lập được hơn 4 năm nhưng đã hoạt tích cực, đạt được nhiều kết quả tốt.
Quyết định số 149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Ngày truyền thống của luật sư Việt Nam không chỉ cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với giới luật sư, mà còn là mốc son quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của đội ngũ luật sư và nghề luật sư ở nước ta.
Trong dịp kỷ niệm Ngày truyền thống 10/10 năm nay, Liên đoàn sẽ tổ chức một chuỗi các sự kiện chuyên môn cũng như cộng đồng, tổ chức hội thảo, tôn vinh các luật sư có nhiều cống hiến cho đất nước… Được biết, đây là những hoạt động mang tính tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước lần đầu tiên được LĐLSVN tổ chức và sẽ được duy trì hàng năm.
Đặc biệt, Lễ công bố quyết định số 149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và kỷ niệm Ngày luật sư Việt Nam 2013 sẽ được tổ chức vào sáng ngày 16/10, tại Nhà hát lớn Hà Nội với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Cùng ngày 16/10, tại nhà kính Nhà hát lớn sẽ diễn ra chương trình giới thiệu, giao lưu liên quan đến hoạt động hành nghề của giới luật sư với nhau

LIÊN HỆ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ INTRACOLAW
Liên hệ
Công ty Luật INTRACO
 Địa chỉ:  Phòng 413, Nhà B15, Khu đô thị Đại Kim - Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội

Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2014

Hàng nhái núp bóng giảm giá khuyến mại giá siêu rẻ


Hàng giả, hàng nhái sản phẩm bản quyền , xâm phạm sở hữu trí tuệ… vẫn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng (NTD), lợi ích của các chủ thể kinh doanh, gây tác động tiêu cực đến kinh tế, xã hội và sức khỏe người dân. Nhưng để “xóa sổ” được hàng giả, hàng nhái luôn là vấn đề nan giải phức tạp chưa giải quyết triệt để

Trên địa bàn TP Hà Nội đang xuất hiện nhan nhản những cửa hàng thời trang made in Việt Nam, treo biển bán hàng “sale off” (bán hạ giá). Có những gian hàng “sale off” 5%, nhưng có những điểm bán treo biển “sale off” đến 30%, thậm chí là 50-70%. Hàng thời trang, mĩ phẩm, chăn-ga-gối-đệm… cho đến hàng gốm sứ cũng giảm giá. Thủ đoạn chiêu trò thu hút khách của những điểm bán hàng này là treo biển: “Thanh lý cửa hàng để trả mặt bằng”; “Thanh lý tất cả các mặt hàng để nghỉ kinh doanh”; “Thanh lý hết hàng để về nước”…

Nhiều khách hàng tưởng bở bởi những tấm biển, băng rôn giảm giá đó,  do không tham khảo thị trường nên đã dính bẫy những chủ kinh doanh hàng giả, hàng nhái. không đăng ký nhãn hiệu hay có những mặt hàng giả, nhập lậu được dán tem nhãn sản phẩm của các hãng nổi tiếng và niêm yết giá của hàng chính hãng, sau đó, họ sử dụng chiêu giảm giá, khiến nhiều khách hàng do không phân biệt được hàng thật hay hàng giả nên dính bẫy của người kinh doanh.

Đến một cửa hàng thời trang bán hàng “sale off” tại chợ Lương Đình Của, PV chúng tôi quan sát thấy trên những mặt hàng bát, đĩa… được quảng cáo là hàng Cty đều dán tem nhãn có chữ Trung Quốc không có đăng ký bảo hộ nhãn hiệu . Vậy mà người bán lại luôn khẳng định với khách hàng: “Hàng Việt Nam giảm giá, yên tâm về chất lượng và giá cả”. Tuy nhiên, người bán hàng lại không biết được nguồn gốc những mặt hàng đang bán: “Đó là hàng Việt Nam sản xuất, còn hàng của công ty nào thì em không biết”.

Nhân viên bán hàng thuê trên phố Phạm Ngọc Thạch tiết lộ: “Trước kia em từng bán hàng cho một shop thời trang made in Việt Nam, nhưng cửa hàng toàn bán sản phẩm được nhập lậu từ Trung Quốc, có những chiếc áo quên gắn tem chính hãng khi bày bán”. Thông thường, những sản phẩm này được các chủ kinh doanh đặt hàng không đăng ký đặt tem nhãn, hay đăng ký thương hiệu sau đó, đặt hàng loạt tem, nhãn giả về để gắn vào, phù phép cho những thứ hàng nhập lậu thành hàng chính hãng “Made in Việt Nam”.

Không chỉ ở TP, một số chợ ở nông thôn hàng giả, hàng nhái cũng đang làm náo loạn thị trường. Tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội, một số chợ như: Lê Thanh, chợ Kênh Đào… hàng “sale off” được bán tràn lan với giá rẻ bất ngờ như: Bàn chải đánh răng 10.000 đồng/3 chiếc, áo 10.000 đồng/chiếc, quần Jean có giá từ 50.000 - 100.000 đồng/chiếc…

Ngoài ra, các mặt hàng thắt lưng, ví da, túi xách thời trang… cũng đang là những mặt hàng khiến khách hàng rất khó phân biệt được hàng giả hay hàng thật. Chúng mang những thương hiệu như Montblanc, LV, Gucci với mức giảm giá đến 40% - 50%, thậm chí, có thời điểm giảm giá tới 80%.

Trong năm 2013, lực lượng QLTT cả nước đã xử lý 84.493 vụ vi phạm pháp luật trên tổng số 161.239 vụ kiểm tra. Tổng số tiền phạt thu nộp ngân sách lên tới 328,97 tỷ đồng, trị giá hàng tịch thu là 123 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các Chi cục đã xử lý 12.711 vụ vi phạm về buôn bán, vận chuyển hàng cấm và hàng nhập lậu, 14.008 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và vi phạm an toàn thực phẩm, 57.774 vụ vi phạm về gian lận thương mại và các vi phạm khác. Bốn mặt hàng nhái, giả trọng tâm là gia cầm nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu, kinh doanh mũ bảo hiểm, kinh doanh phân bón. Có tới 2.232 vụ vi phạm sản xuất, kinh doanh mũ bảo hiểm nhập lậu, kém chất lượng, không có nguồn gốc xuất xứ, vi phạm quy định ghi nhãn hàng hóa trên tổng số 4.539 cơ sở đã tiến hành kiểm tra.

Tháng 4-2014, Đội kiểm soát Hải quan Cục Hải quan TP HCM phát hiện lô hàng 1.660 lọ nước hoa mang nhãn hiệu nổi tiếng nhập khẩu từ Trung Quốc, qua kiểm tra thực tế lô hàng, phát hiện có 1.660 lọ nước hoa các loại, với nhãn hiệu nổi tiếng như: Lancôme, Guici, Tommy, Dior, Acqua di Gioa Armani… xuất xứ từ Pháp và Italy, không khai báo hải quan.

Riêng tuần đầu tháng 8-2014, trên cả nước đã có nhiều vụ vận chuyển hàng lậu, hàng nhái… bị phát hiện. Điển hình là ngày 4-8, Đội QLTT số 24 (Chi cục QLTT Hà Nội) phối hợp cùng CA huyện Hoài Đức phát hiện, tạm giữ nhiều bom bia hơi có dấu hiệu làm giả bia hơi Hà Nội và Việt Hà. Cụ thể, lô hàng gồm 3 bom bia hơi loại 30 lít đóng trong vỏ bom bia Hà Nội; 12 vỏ bia Hà Nội, 5 bom bia hơi loại 30 lít đóng trong vỏ bom bia Việt Hà.

Đơn vị có dấu hiệu làm giả là Cty TNHH Đại Việt châu Á, có cơ sở sản xuất tại cụm 7, thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức. Tại thời điểm kiểm tra, đơn vị trên vẫn đang hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường.  Hiện nay, lực lượng chức năng đã tạm giữ toàn bộ lô hàng trên, tiếp tục phối hợp với CA huyện Hoài Đức làm rõ, đồng thời lấy mẫu giám định chất lượng sản phẩm.

Ngày 6-8, Đội QLTT số 14 (Chi cục QLTT Hà Nội) kiểm tra 2 cơ sở kinh doanh phụ kiện may mặc ở xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thu giữ gần 6 vạn nhãn mác và vật phẩm giả nhãn hiệu nổi tiếng. Trong đó, cơ sở kinh doanh phụ kiện ngành may Tươi Hùng tại đường Ninh Hiệp, thôn Trùng Quán, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm lực lượng QLTT thu giữ 6.000 nhãn Burberry, 1.350 nhãn Channel, 450 nhãn Gucci, 4.800 nhãn D&G, 4.800 vật mang nhãn D&G; tại cơ sở kinh doanh phụ kiện may mặc Thi Hương cũng tại đường Ninh Hiệp, lực lượng chức năng thu giữ 8.800 nhãn giấy Zara, 7.000 nhãn giấy Channel, 14.000 nhãn vải Burberry.



“Thuốc trị” hàng nhái ở đâu?

Những năm qua, công tác chống hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được các cấp, các ngành và các lực lượng chức năng đạt được kết quả nhất định nhưng còn nhiều hạn chế. Tình hình chống hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn diễn biến phức tạp, thương hiệu ản quyền ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD, lợi ích của các chủ thể kinh doanh, gây tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội. Nguyên nhân để xảy ra tình trạng trên là do công tác chống hàng giả vẫn còn nhiều bất cập, chưa mang lại hiệu quả. Trong nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: Phương thức, thủ đoạn sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng phức tạp, tinh vi; Cơ chế thực thi còn chồng chéo, chưa đồng bộ; Sự hợp tác giữa các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ; Trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế; Nhận thức của cộng đồng NTD chưa được nâng cao… có thể kể đến nguyên nhân về sự phối hợp giữa DN và cơ quan thực thi pháp luật.

Một vấn đề bất cập nữa là nhiều DN vẫn thờ ơ với việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, thậm chí thiếu hợp tác với lực lượng chức năng trong công tác đấu tranh, ngăn chặn hàng giả, hàng nhái. Vì vậy, để đấu tranh trong công tác phòng và chống hàng giả, các DN sản xuất kinh doanh cũng có vai trò hết sức quan trọng. Công tác chống hàng giả không thể đạt được hiệu quả như mong muốn nếu như không có sự tham một cách chủ động, tích cực của các DN sản xuất kinh doanh.

Các DN một mặt không tham gia vào việc sản xuất, buôn bán hàng giả mà còn chủ động phòng và chống làm giả các sản phẩm của mình một cách tích cực. cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về đăng ký sản xuất kinh doanh, công bố chất lượng hàng hóa, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp tại cơ quan quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ; tổ chức và quản lý tốt hệ thống tiêu thụ sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng và thực hiện việc bảo hành sản phẩm của chính mình

Văn phòng luật sư Intraco tư vấn luật đất đai

Kính gửi Văn phòng luật sư Intraco
Doanh nghiệp chúng tôi có được thuê một mảnh đất trong khu công nghiệp trả tiền hàng năm. Vậy Doanh nghiệp của tôi có được chuyển nhượng mảnh đất này hay không?
Trả lời của Văn phòng luật sư Intracolaw
Theo Luật Đất đai 2013, quy định
Tại Khoản 3. Điều 149. Đất khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề
Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất, kinh doanh trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất được thuê lại đất gắn với kết cấu hạ tầng của tổ chức kinh tế khác, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng và có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Trường hợp thuê lại đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 174 của Luật này;
b) Trường hợp thuê lại đất trả tiền thuê đất hàng năm thì có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 175 của Luật này.
Tại khoản 2 điều 174. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê
2. Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê ngoài quyền và nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này còn có các quyền sau đây:
a) Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất;
b) Cho thuê quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất đối với trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất; cho thuê lại quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê;
Điều 175. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm
1. Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
b) Thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam;
c) Bán tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 189 của Luật này; người mua tài sản được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định;
d) Góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê; người nhận góp vốn bằng tài sản được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định;
đ) Cho thuê lại quyền sử dụng đất theo hình thức trả tiền thuê đất hàng năm đối với đất đã được xây dựng xong kết cấu hạ tầng trong trường hợp được phép đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng đối với đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Như vậy nếu doanh nghiêp bạn mà muốn thuê đất trả tiền hàng năm không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 149 và 174 Luật đất đai. Muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phải chuyển sang hình thức thuê đất trả tiền một lần

công ty luật intraco chúng tôi chuyên tư vấn pháp luật, giải quyết nhưng thắc mắc khiếu nại nhánh nhất mà hiệu quả, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí
Công ty Luật INTRACO
 Địa chỉ:  Phòng 413, Nhà B15, Khu đô thị Đại Kim - Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

Tư vấn luật đất đai cho người dân Bắc Ninh chuyển nhưởng sử dụng đất

Công ty luật số 5- Quốc Gia đã tư vấn luật miễn phí cho chị Ngô Thị Dương quê Bắc Ninh về các vấn đề liên quan đến chính sách chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai
Câu hỏi:
Đầu năm 2012, mẹ tôi đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mảnh đất có diện tích là 170m2 từ một người hàng xóm. Giấy chuyển nhượng này do người hàng xóm này làm, có xác nhận của trưởng thôn và dấu của Ủy ban nhân dân xã. Gia đình tôi đã xây dựng công trình trên phần diện tích đất này. Hiện nay, phần diện tích đất nhận chuyển nhượng này chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chúng tôi vừa được biết phần diện tích đất này không thuộc quyền sử dụng của người hàng xóm này. Xin hỏi Luật sư gia đình tôi phải làm như thế nào sao cho hợp lý
1) Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất như trên có phù hợp với quy định pháp luật không? Nếu có tranh chấp thì mẹ tôi có thể khởi kiện tới Tòa án không?
2) Nếu phần diện tích đất nêu trên không thuộc quyền sử dụng của người hàng xóm nhưng người này lại cố tình chuyển nhượng cho mẹ tôi (bằng các thủ đoạn, hành vi gian dối, lừa đảo) thì hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
3) Người hàng xóm này đã thuê máy xúc về san phần đất liền kề với đất ở nhà tôi (giả sử có đầy đủ căn cứ pháp lý xác định diện tích nhà đất này thuộc sở hữu hợp pháp của gia đình tôi) khiến cho công trình xây dựng trên phần diện tích đất này bị đổ sập, đồng thời gây ra khoảng cách giữa lòng nhà và khu đất liền kề khá lớn làm cho gia đình tôi không còn ngõ đi lên. Gia đình tôi có thể yêu cầu người hàng xóm này bồi thường thiệt hại  không?
Luật sư xin đưa ra câu trả lời:
Về vấn đề chuyển nhượng quyền sử dụng đất và khởi kiện vụ án dân sự.
          Pháp luật có một số quy định như sau:
          Khoản 2 Điều 689 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật”.
          Điều 134 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
          Theo đó hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Yêu cầu của pháp luật về việc văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực được hiểu là điều kiện về mặt hình thức để giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực.
          Để xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần phải được công chứng hay chứng thực, thì Thông tư số 03/2008/TT-BTP  ngày 25/08/2008  của Bộ tư pháp Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký có quy định về “Việc từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng” như sau:
          Luật công chứng và Nghị định số 79 đã phân biệt rõ hai loại hoạt động công chứng và chứng thực, theo đó công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; còn Phòng Tư pháp cấp huyện, Uỷ ban nhân cấp xã có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, chứng thực chữ ký. Để tạo điều kiện cho Phòng Tư pháp cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã tập trung thực hiện tốt công tác chứng thực bản sao, chữ ký theo quy định của Nghị định số 79, đồng thời từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện theo đúng tinh thần của Luật công chứng, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của cá nhân, tổ chức, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương; căn cứ vào tình hình phát triển của tổ chức hành nghề công chứng để quyết định giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện; trong trường hợp trên địa bàn huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì người tham gia hợp đồng, giao dịch được lựa chọn công chứng của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn khác hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật.
          Theo đó, trừ trường hợp trên địa bàn huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì người tham gia hợp đồng, giao dịch được lựa chọn công chứng của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn khác hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần phải được công chứng theo quy định pháp luật. (Do dữ liệu của câu hỏi chưa nêu cụ thể về địa phương nào nên chưa xác định chính xác về yêu cầu giao dịch là “công chứng” hay “chứng thực”).
          Bên cạnh đó, theo Điều 35 và Điều 36 Luật Công chứng năm 2006 thì để công chứng hợp đồng, giao dịch thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có “Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó”.
          Do vậy, việc thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hoặc giấy tờ thay thế được pháp luật quy định) và văn bản chuyển nhượng (“Giấy chuyển nhượng”) quyền sử dụng đất không được thực hiện công chứng hoặc chứng thực theo quy định thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó là chưa phù hợp với quy định pháp luật.
          Theo đó, gia đình bạn có thể căn cứ các quy định văn bản pháp luật, đối chiếu với trường hợp cụ thể của mình để xem xét đối với giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên.
Về nội dung thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, căn cứ Điều 136 Luật đất đai năm 2003 quy định về “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai” như sau:
  “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí luật sư hướng dẫn được giải quyết như sau:
  1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;
  2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
  a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
  b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng.”
  Theo đó, nếu phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất (giữa mẹ bạn và người hàng xóm) thì trước hết tranh chấp này phải được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;  mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí và nếu có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều 136 Luật đất đai 2003, thì đương sự có thể khởi kiện tới Toà án nhân dân có thẩm quyền để giải quyết theo quy định pháp luật.
  2) Vấn đề Xử lý theo quy định của pháp luật hình sự
  Nếu phần diện tích đất nêu trên không thuộc quyền sử dụng của người hàng xóm nhưng người này lại cố tình chuyển nhượng cho mẹ tôi (bằng các thủ đoạn, hành vi gian dối, lừa đảo như giả mạo “xác nhận của trưởng thôn và dấu của Ủy ban nhân dân xã” …) thì có thể xem xét dấu hiệu tội phạm theo quy định pháp luật.
          Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về “Căn cứ khởi tố vụ án hình sự” như sau: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; 4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; 5. Người phạm tội tự thú.”
          Theo quy định nêu trên thì một trong các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là: “Tố giác của công dân”. Do vậy, gia đình bạn có thể tố giác với cơ quan có thẩm quyền đối với sự việc có dấu hiệu tội phạm nêu trên, để các cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
           3) Vấn đề công ty luật Yêu cầu bồi thường thiệt hại
  Điều 604 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” như sau:
          “1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
          2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
          Theo Khoản 2 Điều 608 thì một trong các trường hợp tài sản bị xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường là: “tài sản bị hư hỏng” .
          Trong câu hỏi bạn có nêu: “Người hàng xóm này đã thuê máy xúc về san phần đất liền kề với đất ở nhà bạn khiến cho công trình xây dựng trên phần diện tích đất này bị đổ sập, đồng thời gây ra khoảng cách giữa lòng nhà và khu đất liền kề khá lớn làm cho gia đình bạn không còn ngõ đi lên”. Tuy nhiên, theo như tình huống bạn nêu ra thì phần diện tích đất này không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cần phải xem xét các tài sản trên đất được xây dựng có phù hợp quy định pháp luật không?
          Giả sử rằng công trình, tài sản được xây dựng trên phần diện tích đất hợp pháp, thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình bạn, và có đầy đủ các tài liệu để chứng minh mà người hàng xóm này đã thuê máy xúc về san đất đã khiến cho công trình xây dựng trên phần diện tích đất này bị đổ sập, đồng thời gây ra khoảng cách giữa lòng nhà và khu đất liền kề khá lớn làm cho gia đình bạn không còn ngõ đi lên, gây thiệt hại cho gia đình bạn thì khi đó, căn cứ các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 nêu trên, gia đình bạn có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại để quyền và lợi ích hợp pháp của mình được đảm bảo theo quy định pháp luật việt nam

Công ty chúng tôi chuyên tư vấn luật, hướng dẫn các thủ tục liên quan tới pháp luật
LIÊN HỆ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ INTRACOLAW
Phòng 413, Nhà B15, Khu đô thị Đại Kim - Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội
 Email:  main@intracolaw.com.vn




Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Hòa giải mâu thuẫn khi ly hôn tại xã , phường

Xin hỏi: Tôi có việc rắc rối trong hồ sơ đơn phương ly hôn như sau: Bản xác nhận mâu thuẫn vợ chồng của tôi đúng ra phải được trưởng khu (trưởng thôn) nơi cư trú xác nhận. Nhưng ông trưởng khu (phường A) nơi tôi cư trú không xác nhận, với lý do khu tôi cư trú thuộc sự quản lý của phường A, nhưng hộ khẩu của gia đình tôi lại do xã B quản lý. Tôi có nhờ một ông trưởng thôn ở trong xã xác nhận, rồi tư pháp và UBND xã đã xác nhận đóng dấu. Tôi gửi đơn xuống TAND huyện để giải quyết
TAND huyện thụ lý hồ sơ và triệu tập hòa giải 3 lần. Giờ đây vợ tôi kiện tôi với lý do tôi và ông trưởng thôn xã B (người ký xác nhận cho tôi) giả mạo giấy tờ. Vậy tôi có vi phạm làm giả giấy tờ? Hồ sơ của tôi có đủ điều kiện để TA giải quyết ly hôn hay không? nhờ các luật sư tư vấn giúp tôi
Trả lời: Cơ sở pháp lý Luật Hôn nhân và Gia đình, Nghị định 15/2014 về hòa giải cơ sở.
Điều 91 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 về ly hôn theo yêu cầu của một bên quy định: “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại tòa án không thành thì tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn. Khoản 1, Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 về căn cứ cho ly hôn quy định: “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì tòa án quyết định cho ly hôn cho cả hai
Theo Điều 86 Luật Hôn nhân Gia đình 2000: Khuyến khích hoà giải ở cơ sở. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hoà giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hoà giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hoà giải ở cơ sở.
Theo Nghị định 15/2014/ NĐ - CP quy định một số điều của pháp Luật Hòa giải cơ sở. Điều 5: Phạm vi hòa giải ở cơ sở.1. Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: c) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn.
Điều 8. Thực hiện hòa giải giữa các bên ở thôn, tổ dân phố khác nhau
1. Trong trường hợp các bên ở thôn, tổ dân phố khác nhau, thì tổ trưởng tổ hòa giải hoặc hòa giải viên được phân công hòa giải ở các thôn, tổ dân phố đó phối hợp, trao đổi thông tin, bàn về biện pháp tiến hành hòa giải và thông báo với trưởng ban công tác mặt trận tại nơi đó cùng phối hợp giải quyết.
2. Các hòa giải viên cùng tiến hành hòa giải và thông báo kịp thời với tổ trưởng tổ hòa giải về kết quả hòa giải.
Đối với trường hợp của bạn, công ty luật chúng tôi xin tư vấn luật cho bạn như sau nếu bạn cư trú ở một nơi và hộ khẩu một nơi thì thực hiện theo Điều 8 là phối hợp trao đổi giữa các tổ dân phố với nhau để tiến hành hòa giải
LIÊN HỆ
Công ty Luật INTRACO
Phòng 413, Nhà B15, Khu đô thị Đại Kim - Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội